Trên Bờ Biển Sáng (Tập Truyện Ngắn)
Tác giả: Henryk Sienkiewicz
NXB: Văn Học 1989
Tình trạng: Sách tốt, nguyên vẹn gáy bìa, 403 trang khổ 13X19
Henryk Sienkiewicz được trao giải nhờ các đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực tiểu thuyết sử thi. Toàn bộ sáng tác của ông hết sức phong phú và sâu sắc, kĩ lưỡng. H. Sienkiewicz là hiện thân của tinh thần dân tộc Ba Lan. Các tiểu thuyết Trận hồng thủy, Ngài Wolodyjowski, Bằng lửa và gươm và Quo vadis đã củng cố vững chắc uy tín của H. Sienkiewicz - một nhà văn lỗi lạc của thế giới trong thể loại tiểu thuyết lịch sử.
* Nhà văn Ba Lan
* Nơi sinh: Wola Okrzeska (vùng đất Ba Lan thuộc Nga)
* Nơi mất: Vevey (Thụy Sĩ)
Henryk Adam Alexandr Sienkiewicz là con trai một địa chủ quý tộc nghèo sống ở nông thôn. Đến tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về Warszawa. Sau một thời gian đi dạy tư , năm 1866 ông vào trường Đại học Tổng hợp Warszawa, lúc đầu học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. Năm 1871, vì không đủ sống ông buộc phải bỏ dạy học đi làm báo; H. Sienkiewicz bắt đầu gây đư ợc chú ý với tiểu thuyết viết từ thời sinh viên Phí hoài (1871) và các truyện ngắn Người đầy tớ già (1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở thành một nhà báo đ ược thừa nhận tài năng.
Năm 1876, tờ Báo Ba Lan (Gazeta Polska) cấp tiền cho H. Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa Kỳ; ở đây ông tham gia vào những thử nghiệm xây dựng trại xã hội chủ nghĩa ở Anahaim (gần Los Angeles) song không thành. Từ 1878 ông trở về Châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết. Năm 1879, H. Sienkiewicz trở thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan; ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con nh ưng chết sớm.
Sau khi về Ba Lan, H. Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm dài hơi và trở nên nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Trận hồng thủy, Ngài Wolodyjowski, Bằng lửa và g ơm - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ XVII trong thời gian chiến tranh của người Ba Lan với người Cazac, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau đó, H. Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về cuộc sống hiện đại là Không có giáo điều và Gia đình Polaniecki; còn vào những năm 1895-1896, tiểu thuyết Quo vadis nói về cuộc sống dư ới triều đại hoàng đế Nero thời cổ La Mã đã mang lại danh tiếng thế giới cho ông. (Ngay sau đó cuốn tiểu thuyết đã đ ợc chuyển thể và dựng thành phim ở Pháp và Italia).
Năm 1900, H. Sienkiewicz đ ược những người hâm mộ quyên tiền đủ để mua một trang trại nhỏ và tổ chức sinh nhật rầm rộ. Năm 1905, ông đư ợc trao giải Nobel vì những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử, mà cụ thể là tiểu thuyết Quo vadis(1) viết về cuộc đấu tranh của những người Thiên Chúa giáo với bạo chúa Nero. Viện Hàn lâm Thụy Điển đánh giá ông là "một trong những thiên tài hiếm hoi thể hiện được tinh thần dân tộc... Sáng tác của H. Sienkiewicz vừa có tầm bao quát rộng vừa đ ược suy tính kĩ lưỡng, văn phong sử thi đạt đến độ hoàn thiện nghệ thuật".
Khi Thế chiến I nổ ra, H. Sienkiewicz rời quê sang sống ở n ước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Năm 1916 ông mất ở Vevey, tám năm sau thi hài của ông đ ược chuyển về Warszawa và an táng trong nhà thờ Thánh Jan.
* Tác phẩm:
- Hiến sinh (Ofiara), bản thảo đầu tay, đã bị thất lạc.
- Phí hoài (Namarne, 1871), tiểu thuyết.
- Tiểu phẩm hài trong cặp Worszylly (Humoreski z teki Worszylly, 1872), tập truyện.
- Người đầy tớ già (Stary sluga, 1875), truyện ngắn.
- Hania (1876), truyện vừa.
- Phác họa bằng chì than (Szkice weglem, 1877), truyện ngắn.
- Janko nhạc công (Janko muzykant, 1879), truyện ngắn.
- Thiên thần (Jamiol, 1880), truyện ngắn.
- Kiếm bánh mì (Za chlebem, 1880), truyện ngắn.
- Người gác đèn biển (Latarnik, 1882), truyện ngắn [The lighthouse keeper].
- Những bức thư trên đường sang Mỹ (Listy z podrozy do Ameryki, 1882), tập phóng sự.
- Bartex - người chiến thắng (Bartex - z wyciezca, 1882), truyện vừa.
- Sachem (1883), truyện ngắn.
- Bằng lửa và g ươm (Ogniem i mieczem, 1884), tiểu thuyết [With fire and sword].
- Trận hồng thủy (Potop, 1886), tiểu thuyết [The Deluge].
- Ngài Wolodyjowski (Pan Wolodyjowski, 1888), tiểu thuyết [Pan Michael].
- Không chút giáo điều (Bez dogmatu, 1891), tiểu thuyết [Without dogma].
- Quo Vadis (1894-1896), tiểu thuyết.
- Gia đình Polaniecki (Rodzina Polaniekich, 1895), tiểu thuyết.
- Hiệp sĩ Thập Tự (1) (Krzyzacy, 1900), tiểu thuyết.
- Trên trường vinh quang (Na polu chwaly, 1906), tiểu thuyết [On the field of glory].
- Vòng xoáy (Wiry, 1910), tiểu thuyết [Whirlpools].
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm (W pustyni w puszczy, 1912), tiểu thuyết [In desert and wilderness].
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
- Quo vadis (tiểu thuyết, 2 tập), Nguyễn Hữu Dũng dịch, NXB Văn Học, 1985 (tập 1), 1986 (tập 2);
- Quo vadis (tiểu thuyết, 2 tập), Nguyễn Hữu Dũng dịch, NXB Văn Học tái bản lần 2 và lần 3 năm 2003-2004.
- Quo vadis (Bạo chúa Néron), Ngũ Văn Bảng dịch, NXB Sầm Sơn, 1975
- Hania, Nguyễn Hữu Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986.
- Trên bờ biển sáng (tập truyện ngắn), Nguyễn Hữu Dũng - Lê Bá Thự dịch, NXB Văn Học, 1989; 2000.
- Chú bé nhạc sĩ (nguyên tác: Janko muzykant, tập truyện), Từ Đức Hòa dịch, NXB Phụ Nữ, 1988.
- Trên sa mạc và trong rừng thẳm, Nguyễn Hữu Dũng dịch, NXB Kim Đồng, 1988; NXB Văn Học, 2000; 2002; 2003.
- Nàng thứ ba, (tập truyện ngắn) Lê Bá Thự dịch; NXB Văn Học, 2004.
- Người gác đèn biển, Nguyễn Hữu Dũng dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1997.
- Nhạc công đại phong cầm ở làng Ponikla, Chiêm bao, Những nhầm lẫn khôi hài, ở xứ vàng, Nàng thứ ba, Lê Bá Thự dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999.
- Người gác đèn biển, Lê Bá Thự dịch; Đioklex, Nguyễn Hữu Dũng dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004; Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đư ợc giải thưởng Nobel, NXB Văn Học, 2004.