Hoàng Đạo - Nhà Báo - Nhà Văn
Tác già: Vu Gia
NXB: Văn Hóa Hà Nội 1997
Tình trạng: sách tốt, 467 trang khổ 13X19
Hoàng Đạo
Hoàng Đạo, tên thật là Nguyễn Tường Long, là em ruột nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, quê quán Quảng Nam, sinh năm 1906 tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, trước Thạch Lam 5 năm, sau Nhất Linh 1 năm, sau Khái Hưng 10 năm.
Thời bé học tiểu học ở Cẩm Giàng, sau lên Hà Nội học ban trung học, chỉ 2 năm ông đỗ bằng cao tiểu, rồi 2 năm kế đó đậu tú tài vừa mới 17 tuổi. Ông quay ra tìm việc làm, thi đỗ tham tá kho bạc, vừa đi làm vừa đọc sách, vừa học Hán văn, vừa viết văn. Năm 1930, Hoàng Đạo thi vào học Trường Luật Hà Nội. Sau khi đỗ cử nhân Luật khoa, ông được bổ làm tham tá lục sự ở tòa án Đà Nẵng, rồi sau đổi ra Hà Nội, nhưng vẫn tích cực hoạt động cho nghề văn.
Từ năm 1932, ông cộng tác cùng anh là Nhất Linh, với các ông Khái Hưng, Thế Lữ, Tú Mỡ viết báo Phong Hóa, lấy tên là Tứ Ly. Năm 1935, nhóm này lại ra thêm một tờ báo thứ hai nữa là tờ Ngày Nay, chủ trương tiến bộ và mới mẻ hơn. Trong 2 tờ báo này, Hoàng Đạo vẫn là cây bút sắc sảo già dặn, chủ trì những mục bài đã kích phong kiến và thực dân, đã gây nên xúc động mạnh mẽ trong quốc dân, nhất là giới thanh niên và trí thức.
Năm 1937, tờ Phong Hóa bị đình bản chỉ vì một bài phóng sự đặc sắc của Hoàng Đạo về Hoàng Trọng Phu. Từ 1937 trở đi, Hoàng Đạo lần lượt cho ra đời những bài về xã hội, kinh tế, chính trị rất có giá trị, tính cách phản phong (phản phong kiến), phản thực (thực dân) cao : Trước Vành Móng Ngựa, Mười Điều Tâm Niệm, Bùn Lầy Nước Đọng, Vấn Đề Thuộc Địa, Vấn Đề Cần Laọ Ngoài ra, trong mục "Người và Việc" hằng tuần, Hoàng Đạo luôn luôn bênh vực cho người dân quê, mạnh dạng tố cáo bọn tham quan ô lạị. Ông cũng là tác giả một cuốn văn đả kích Bảo Đại và Nam triều; ông thực xứng đáng là một chiến sĩ tiền phong, làm tên tuổi văn sĩ một thời thành danh, làm vẻ vang cho ông, và cho cả nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Năm 1939, Hoàng Đạo cho đăng tiểu thuyết Con Đường Sáng, là một truyện dài ông đã cùng viết chung với Nhất Linh.
Năm 1940, Hoàng Đạo, cũng như số đông các nhà văn nhóm Tự Lực Văn Đoàn, tích cực hoạt động trong đảng Đại Việt Dân Chính của Nhất Linh. Sự việc bại lộ, ông bị Mật thám Pháp bắt đưa đi an trí ở Vụ Bản, Hòa Bình, cho đến năm 1943 thì tha về Hà Nộị
Năm 1945, Hoàng Đạo giúp em là Nguyễn Tường Bách khôi phục tờ báo Ngày Nay, và đeo đuổi công cuộc vận động cứu quốc. Tháng 6/1945, ông đi Việt Trì rồi lên Lào Cay, được Võ Nguyên Giáp mời gia nhập Tổng Bộ Việt Minh. Nhưng vì chính kiến bất đồng, ông bèn từ khước. Sau này, khi Nguyễn Tường Tam giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên Hiệp kháng chiến ngày 14/2/1946, thì Hoàng Đạo bấy giờ thỏa thuận tham gia Hội Liên Việt với tư cách ủy viên, đại diện cho VN Quốc Dân Đảng.
Nhưng từ sau Hội nghị Đà Lạt ngày 17/4/46 thất bại, trong khi Nguyễn Tường Tam âm thầm rút lui ra khỏi chính phủ, thì Hoàng Đạo cũng từ giã Hội Liên Việt giả hiệu mà bôn ba sang hoạt động bên Trung Hoa. Tháng 8/1948, Hoàng Đạo chẳng may lại bị đứt mạch máu chết trên chuyến xe lửa Hongkong - Quảng Châu, khi xe ngang qua trấn Thạch Long, hưởng dương 42 tuổi.
Sự Nghiệp Văn Hóa (1)
Năm 1932, sau khi đã hoàn toàn dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng, thống trị Pháp mở một cuộc thuyên chuyển lớn trong hàng ngũ viên chức bổn xứ nhằm gián đoạn liên lạc giữa những người trí thức Việt Nam yêu nước. Nhưng đối với Nguyễn Tường Long, việc đổi từ Sàigòn ra Hà Nội lại là một dịp may để ông cùng với anh em hoạt động. Nghiên cứu những kinh nghiệm mang lại do cuộc khởi nghĩa thất bại của Nguyễn Thái Học và tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng, ông cùng với anh ruột là ông Nguyễn Tường Tam và một người bạn là ông Trần Khánh Giư tức Khái Hưng tự vạch ra một con đường chiến đấu trường kỳ đi tới giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Đó là con đường huấn luyện quần chúng bằng báo chí. Năm 1933 bộ ba này nhận lại một tờ báo sắp chết là tờ Phong Hóa của một người bạn là ông Phạm Hữu Ninh. Bằng một kỹ thuật học được của báo chí tiến bộ Âu Châu, bằng một lối hành văn mới và nhất là bằng giọng hài hước, họ đã làm cho tờ Phong Hóa sống lại và truyền bá rất mau. Chủ trương của bộ ba này lúc đầu là dùng nghệ thuật, văn chương để thu hút quần chúng, dùng cái cười làm khí giới để chen vào cuộc xung đột giữa hai khuynh hướng “theo mới” và “tồn cổ” mà họ đứng hẳn vào khuynh hướng triệt để theo mới. Khi đã thu hút được quần chúng rồi, họ bắt đầu chuyển sang việc truyền bá những tư tưởng cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội nhịp theo trào lưu tiến hóa của thế giới. Thanh thế của tờ báo càng lớn thì những người có tâm huyết có tài năng tìm đến hợp tác mỗi ngày một đông, và nổi bật nhất là Tú Mỡ tức Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ tức Nguyễn Thứ Lễ…
Trong báo Phong Hóa, Nguyễn Tường Long lấy bút hiệu là Tứ Ly. Sở dĩ ông chọn bút hiệu này là vì muốn đả phá thói mê tín bốc phệ, ông đã chọn giờ xấu nhất trong ngày là giờ Tứ Ly làm tên hiệu. Thời kỳ này Tứ Ly rất ít khi viết những bài nghị luận chính trị, kinh tế hoặc xã hội mà chỉ chuyên về mặt đả kích. Bằng một lối văn hài hước khi thì nhẹ nhàng thâm thúy kiểu nhà nho, khi thì sâu cay độc địa kiểu những cây bút đả kích Tây phương, Tứ Ly đả kích tất cả những người và những việc mà ông cho là tiêu cực, là hủ bại, là cản đường tiến của xã hội. Bất cứ một chuyện nhỏ hay một chuyện lớn, ảnh hưởng quan trọng hay thoảng qua, tất cả đều có thể là những đầu đề cho Tứ Ly đả kích để đưa chủ trương “theo mới” những tư tưởng tiến bộ của mình ra: một vụ kiện tranh ngôi thứ, một biện pháp hành chính mới của thống trị Pháp, một thay đổi chức vị trong triều đình Huế, một viên quan bị tố cáo ăn hối lộ, một câu văn viết không rõ ý của một tờ báo khác, một tư tưởng nhai lại, thậm chí một nét mặt, một kiểu phục sức như cái mũi đỏ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, cái búi tóc củ hành của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố… tất cả đều bị Tứ Ly đưa lên mặt báo, bóc trần, mổ xẻ để đả kích bằng cả lý luận lẫn giọng cười.
Báo Phong Hóa càng ngày càng có ảnh hưởng càng lớn, Mật thám Pháp dò biết Tứ Ly là linh hồn của cơ quan này nên đã ra lịnh đổi viên tham tá lục sự Nguyễn Tường Long từ Hà Nội vào Đà Nẵng nhằm tách rời ông khỏi bộ tham mưu. Nhưng trở lại miền Trung là Tứ Ly lại có thêm một dịp để đả kích chế độ cai trị cực kỳ khắc nghiệt của thực dân với những tay sai đắc lực của chúng trong hàng ngũ quan lại Nam Triều. Vì thế, thực dân Pháp không còn cách nào khác là hạ lệnh đóng cửa tuần báo Phong Hóa. Lúc đó vào năm 1937.
Nhưng báo Phong Hóa chết, nhóm của ông có sẵn nhà Xuất Bản Đời Nay để làm cầu liên lạc với người đọc qua những tác phẩm văn nghệ đã đăng trong báo đó. Thời kỳ này Tứ Ly không có một văn phẩm nào để xuất bản. Ít lâu sau người anh thứ hai của ông là Nguyễn Tường Cẩm xin được ra một tờ báo khác là tuần báo Ngày Nay. Trong 18 số đầu, tờ Ngày Nay chuyên về hình ảnh và phóng sự với mục đích tránh sự rình rập của thực dân Pháp. Từ số 19, tờ Ngày Nay bắt đầu đổi thể tài, chuyên về văn nghệ và Tứ Ly đổi tên là Hoàng Đạo để thỉnh thoảng viết một vài bài đả kích nhẹ nhàng. Ngược lại với bút hiệu chọn lần trước, với tờ Ngày Nay, Nguyễn Tường Long lấy giờ Hoàng Đạo là giờ tốt nhất trong ngày để thay tên Tứ Ly. Chính trong thời gian bắt đầu xây dựng tờ Ngày Nay, tác giả đã ghi chép một số những vụ xử án điển hình tại tòa Tiểu hình Hà Nội trong khi ông ngồi ghế lục sự tại tòa này và đăng trong mục “TRƯỚC VÀNH MÓNG NGỰA”. Dụng ý của ông khi viết mục này là vẽ lại cảnh sống cơ cực, trình độ thấp kém của người dân Việt Nam dưới chế độ thống trị của thực dân Pháp qua sự xét định của tòa án của Pháp, theo luật lệ của Pháp, thứ luật lệ mà người Pháp vẫn tự hào là nhất thế giới.
Qua nhiều lần thay đổi thể tài, phần nghị luận chính trị /kinh tế/ xã hội được tăng cường tùy theo tình hình chính trị và sự canh chừng của thực dân lúc đó; phần văn nghệ dần dần được giới hạn và đưa từ trang đầu vào trang giữa rồi chuyển về những trang cuối của tờ báo. Cây bút nghị luận Hoàng Đạo càng ngày viết càng nhiều và không ngừng đưa ra những tư tưởng tiến bộ, giới thiệu những khuynh hướng chính trị và cách mạng trên thế giới, khảo cứu thực trạng của xã hội Việt-Nam để dẫn dắt người đọc đi tới con đường cách mạng. Ông đã viết từng loạt bài nối tiếp từ Mười Điều Tâm Niệm mà ông coi như kim chỉ nam cho thanh niên thời ấy, đến Công Dân Giáo Dục để giới thiệu các chế độ chính trị, khuynh hướng dân chủ ở nước ngoài, cùng các chủ nghĩa chính trị, các đảng phái, từ chủ nghĩa vô chính phủ, đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Cộng-sản. Các vấn đề xã hội trong nước được ông khảo xét một cách minh bạch từ đời sống nông dân sau lũy tre xanh đến những cảnh vật lộn cực khổ của lao động thợ thuyền ở thành thị với những loạt bài “Bùn Lầy Nước Đọng” và “Vấn Đề Cần Lao”. Trong thời kỳ Mặt Trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, ông đã có hoàn cảnh lên án cực kỳ nghiêm khắc chủ nghĩa thực dân xâm chiếm thuộc địa với loạt bài khảo sát nhan đề “Vấn Đề Thuộc Địa”.
Trong báo Ngày Nay ông cũng có viết một truyện dài nhan đề Con Đường Sáng và một số truyện ngắn, nhưng ông chưa tìm ra được một lối viết truyện thích hợp. Sau này ông có để riêng một thời gian để nghiên cứu kỹ thuật về tiểu thuyết và ông đã xây dựng một số tác phẩm nhưng đều phải bỏ dở vì những hoạt động cách mạng.
Có thể nói rằng sự nghiệp văn chương của Hoàng Đạo ngừng lại cùng với tuần báo Ngày Nay bị đóng cửa năm 1940 sau khi nước Pháp bị Đức chiếm đóng. Và từ đó ông chuyên về các hoạt động cách mạng. Cuối năm 1940 vì tổ chức đảng Đại Việt Dân Chính chủ trương xây dựng lực lượng, lợi dụng các biến cố quốc tế để đánh đuổi thực dân Pháp, lật đổ triều đình Huế xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ; nên ông cùng các đồng chí bị Pháp bắt giam và đưa đi đày tại trại an trí Vụ Bản thuộc châu Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình. Năm 1943 thực dân Pháp giải ông về quản thúc tại Hà Nội. Tháng 6 năm 1946 sau khi lực lượng cách mạng dân tộc bị kiệt quệ trong một cuộc nội chiến chống Việt Minh cộng sản, ông cùng các chiến sĩ Quốc Dân rút sang Trung Quốc. Trú ở Côn Minh rồi sang Quảng Châu, thời gian này ông tập trung nghiên cứu tìm một chính thể và mô hình xã hội thích hợp để áp dụng tại Việt Nam. Ông qua đời đột ngột trên chuyến xe lửa Hương Cảng – Quảng Châu ngày 22 /7/1948, thi hài an táng tại trấn Thạch Long. Sau này dưới thời kỳ cải cách ruộng đất Trung Quốc giải tỏa nghĩa trang làm khu dân sinh và mộ phần của ông bị san bằng không còn dấu vết.